Phân tích đoạn thơ mình về mình có nhớ ta. Đây là đoạn thơ được rất nhiều bạn trẻ quan tâm nhất bởi nó không chỉ thể hiện được cảm nhận chân thực nhất về tình cảm thủy chung, gắn bó của những người cách mạng về xuôi với con người Việt Bắc. Với dàn ý đầy đủ giúp các em học sinh có thể làm được các bài văn theo phong cách khác nhau để mang đến nguồn cảm hứng cho người đọc qua bài phân tích đoạn thơ mình về mình có nhớ ta dưới đây.
Dàn ý
Mở bài:
-Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
Tác giả Tố Hữu là một nhà thơ lớn, một nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông luôn phản ánh những chặng đường đấu tranh gian khổ song cũng nhiều thắng lợi của dân tộc.
Việt Bắc là bài thơ xuất sắc của Tố Hữu tổng kết về cuộc kháng chiến anh hùng của dân tộc, là lời tri ân sâu nặng về tình nghĩa cách mạng.
-Giới thiệu nội dung cần phân tích – bài thơ Việt Bắc đoạn “Mình về mình có nhớ ta…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Thân bài:
1.Hai mươi câu thơ đầu: Kỉ niệm kháng chiến qua đó bộc lộ tình quân dân thắm thiết
-Lời nhắn nhủ của người Việt Bắc:
Bốn dòng thơ đầu có hai câu hỏi tu từ, người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ “ta” là người nơi đây, hỏi nhớ “núi, nguồn” là nhớ mảnh đất đã từng chung sống, gắn bó 15 năm nghĩa tình. Câu hỏi mượn cớ nhưng thực ra là nhắc nhở, nhắn nhủ người về xuôi đừng quên mảnh đất tình người.
Sự tình chung, tình cảm đạo lí. Hiệu quả của nghệ thuật câu hỏi tu từ để bộc lộ cảm xúc người nói, người ở lại kín đáo bộc lộ nỗi nhớ và tình yêu dành cho người về xuôi không phai mờ, trân trọng.
Lời giãi bày của nhà thơ, tự nhắc nhở mình
-Tâm sự của người về xuôi trong buổi chia tay:
Bốn câu tiếp gợi ra khung cảnh chia tay. “Bên cồn gợi địa điểm chia tay ở bến sông nào đó, tiếng hát làm nền, nhân vật người đi kẻ ở bịn rịn, ban tay nắm chặt không rời, xúc động không nói nên lời. Tất cả tạo nên bầu không khí ngập tràn tình cảm, bin rịn, quyến luyến tình quân dân.
Từ láy “bâng khuâng, bồn chồn” lột tả tâm trạng xốn xang, xao xuyến vì tình cảm bị níu kéo lại. Diễn tả nỗi lòng thương mến của người ở lại dành cho con người, Việt Bắc.
“Áo chàm” hình ảnh ẩn dụ Việt Bắc. Tượng trưng cho tâm hồn chất phác, chân thành, sâu nặng của người Việt Bắc.
-Trong lúc chia tay, khơi gợi lại những tháng ngày gian khổ ở chiến khu
“Mưa nguồn suối lũ”: đất trời vần vũ, chìm trong mưa gió bão bùng, sự khắc nghiệt của mùa mưa Việt Bắc khiến cuộc sống trong rừng thêm khó khăn.
“Những mây cùng mù” biện pháp chêm xen nhấn mạnh bầu trời u ám nặng nề, gian khổ đè nặng, ẩn dụ những ngày đầu khó khăn của kháng chiến
“Miếng cơm chấm muối”: vừa tả thực vừa ước lệch chỉ những thiếu thốn mọi mặt ở chiến khu.
Khi gian khổ có nhau đến khi vui sướng người đi kẻ ở, giờ phút chia tay lòng người ở lại bỗng xôn ao vì tiếc nuối nhớ nhung. Biện pháp hoán dụ “rừng núi” chỉ người Việt Bắc, nỗi nhớ thêm kín đáo, đại từ “ai” phong cách dân gian mộc mạc
Người Việt Bắc nhắc đến kỉ niệm lịch sử khó quên, tự hào về mảnh đất anh hùng..
Hình thức đối thoại, đoạn thơ diễn tả tình cảm người Việt Bắc dành cho cán bộ chiến sĩ thắm thiết, mặn nồng.
2.Những tâm sự của người ra đi:
“Ta với mình, mình với ta” là một sự khẳng định tấm lòng thủy chung, một lòng mặn mà của người đi kẻ ở.
Người ra đi luyến tiếc để nỗi nhớ vào thiên nhiên, nhớ về trăng vào những buổi chiều tà, nắng hiu hắt chiều sương, rừng nứa bờ tre… nhớ về thời gian bốn mùa cùng bên nhau
Nhớ về con người Việt Bắc: dù có gian khó, gập ghềnh nhưng không chùn bước, cùng nhau chia sẻ ngọt bùi qua cơn đói rét. Nhớ về những kỉ niệm ấm áp bên bộ đội và đồng bào cùng các điệu hát, “lớp học I tờ”… hình ảnh mộc mạc của “cô em gái” lao động
Nhớ hình ảnh đoàn kết, hào hùng xông pha đánh giặc
Nhớ những chiến công lẫy lừng, niềm vui thắng trận
Tình cảm người chiến sĩ dành cho con người và quê hương Việt Bắc cũng là tình cảm nhà thơ dành cho nhân dân, đất nước, tình yêu cuộc sống kháng chiến
Tìm hiểu thêm : Sơ đồ tư duy hình ảnh người lính tây tiến
3.Phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc qua cái nhìn đầy ưu ái của Tố Hữu “ta về mình có nhớ ta”:
-Lời tâm sự của người đi tha thiết, sâu lắng.
“Hoa và người”: nỗi nhớ hướng đến đối tượng cụ thể
Đại từ nhân xưng “mình-ta” thể hiện tình yêu thương gắn bó sâu nặng của người đi kẻ ở
Điệp từ “ta về” đầu câu bộc lộ nỗi niềm xao xuyến, tâm trạng luyến lưu, vấn vương trong buổi chia tay, khơi gợi về quá khứ.
-Trong nỗi nhớ, bức tranh hiện ra có vẻ đẹp gắn bó giữa cảnh với người
Cảnh thiên nhiên gói lại trong 4 mùa, thành bộ tranh tứ bình ghi lại bởi bút pháp chấm phá, hồn thơ cổ điển
Vẻ đẹp mùa đông: thiên nhiên có nét chấm phá sắc đỏ thắm tươi của hoa chuối, sự tương phản màu sắc gợi vẻ rực rỡ. Không gian bỗng trong sáng, ấm áp nhờ sắc đỏ, khiến nỗi nhớ thêm rạo rực lòng người.
Đất trời vào xuân, thiên nhiên Việt Bắc khoác trên mình gam màu xanh lá của núi rừng điểm tô dưới sắc trắng tinh khôi của hoa mơ. Động từ “nở” cùng tính từ “trắng” gợi những đóa hoa đang khoe sắc, độ xuân thì. Trong cảnh xuân con người miệt mài lao động, tạo bức tranh hài hòa
Sang hè, Việt Bắc mang sắc vàng tươi xinh của rừng phách. Phong cảnh mùa hạ hiện ra cổ điển, hữu tình ngời sáng, lung linh
Sau cùng là cảnh thu với vẻ đẹp của đêm trăng. Một nét huyền ảo, hiền hòa, mộng mơ. Vẻ đẹp mang theo bao ước mơ tươi sáng ở tương lai
Đoạn thơ khép lại bằng “khúc hát ân tình thủy chung”. Đó là tiếng hát của người ở lại, cũng là của người ra đi. Khúc hát của sự hy vọng thiết tha, tình quân dân đậm sâu.
Đoạn thơ mở ra thế giới của cái đẹp: bức tranh thiên nhiên đẹp, con người đẹp, trong đó là tấm lòng đẹp theo cùng nỗi nhớ đẹp. Thể hiện tình quân dân, tình đất nước cao đẹp của nhà thơ.
Kết bài:
Khái quát lại những nét nghệ thuật đặc sắc và phong cách thơ Tố Hữu: tính dân tộc đậm đà (thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp trong văn học dân gian, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh thơ gần gũi, giọng thơ thiết tha.)
Tổng kết giá trị nội dung toàn bài thơ: là khúc hùng ca và khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.
Phân tích đoạn thơ mình về mình có nhớ ta
“Việt Bắc” không kể là bài ca ân tình mà còn là bản tổng kết 15 năm Cách mạng đầy gian khổ. Bài thơ được viết bằng giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết, tái hiện lại cuộc chia tay giữa Người đi kẻ ở, giữa ta và mình đầy lưu luyến, bịn rịn. đoạn thơ được bình giảng là minh chứng cho điều đó.
Đoạn thơ là tiếng lòng của người đi kẻ ở, được tác giả tái hiện lại bằng lối nói đối đáp rất quen thuộc của ca dao, dân ca: “ta về”, “ mình có nhớ” làm cho đoạn thơ mang âm hưởng của một bài hát Giao Duyên vừa đằm thắm vừa mang nặng nghĩa tình.
Bao trùm cả đoạn thơ còn là một nỗi nhớ khôn nguôi giữa “ta” và “mình” ( chú ý: bốn từ “nhớ” được lặp lại và việc láy lại bốn lần tự “mình” trong đoạn thơ).
Mở đầu là 4 câu thơ ngọt ngào, tha thiết và cũng chính là những lời ướm hỏi của người ở lại với người ra đi:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
“Mười lăm năm” là một quãng thời gian không phải là quá dài nhưng đã có “biết bao nhiêu tình” và biết bao kỷ niệm nhưng giờ đây phải giã biệt. Người ở lại rất nhạy cảm trước sự thay đổi của hoàn cảnh. Người ở lại sợ rằng người bạn của mình khi về thành phố sẽ quen với “ánh điện cửa gương” rồi quên mất ánh trăng thuở nào. Vì vậy luôn gợi nhắc những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình. Đó là những tháng ngày cùng nhau đồng cam cộng khổ trong suốt 15 năm Cách mạng. Giờ đây Việt Bắc để trở thành quê hương cách mạng, là con nuôi của nghĩa tình.
Nhìn cảnh lại nhớ đến người. Cảnh và người Việt Bắc có biết bao nghĩa tình đối với những người kháng chiến. Đó là những năm tháng “thiết tha mặn nồng” không thể nào quên đối với người ở lại. Lời thơ vang lên như một nỗi niềm day dứt khôn nguôi. Cái tình ấy đã trở nên lớn lao và thiêng liêng. Đó là “tình yêu cội nguồn”.
Lời người ở lại còn là sự khẳng định mãi mãi giữ trọn tấm lòng thủy chung của mình dù cho hoàn cảnh có thay đổi. đây là tâm trạng thật là nghĩa tình sâu nặng của đồng bào với cách mạng. Nếu bốn câu đầu là lời của người ở lại thì bốn câu sau lại là tiếng lòng của người ra đi:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạng bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Tìm hiểu thêm :Sơ đồ tư duy đoạn 3 tây tiến
Người ra đi không trả lời trực tiếp câu hỏi của người ở lại nhưng trong lòng cũng mang một nỗi nhớ khôn ngui. Đó không chỉ là nhớ người mà còn là nhớ chính mình. Tình cảm của người ra đi dù không được nói lên trực tiếp bằng lời nhưng lại được diễn tả bằng sự “bâng khuâng” trong tâm trạng đầy nhớ thương và cả sự “bồn chồn” khi bước chân đi. “Tiếng ai tha thiết” như một lời động vọng sao mà gần gũi thân thương biết bao.
Đáng chú ý là hình ảnh mang tính hoán dụ “áo chàm” không chỉ đơn thuần dùng để chỉ màu áo quen thuộc của người dân Việt Bắc (áo nhuộm màu cây chàm) mà còn là hình ảnh tượng trưng cho toàn thể người dân Việt Bắc trong ngày đưa tiễn những đồng chí cách mạng về xuôi: “chàm nhau thêm đậm, phấn son chẳng nhòa”.
“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” là một hình ảnh có giá trị biểu cảm cao. Dù không nói ra được thành lời nhưng trong lòng lại muốn nói nhiều lắm. Đó chính là tấm lòng son sắt của những người cách mạng với quê hương Việt Bắc, với cội nguồn của cách mạng. Nhịp thơ 3/3/2 diễn tả thân tình một thoáng ngập ngừng của nỗi lòng bâng khuâng bịn rịn lúc chia tay.
Sử dụng lối nói đối đáp của ca dao, cặp đại từ nhân xưng “mình” ,”ta” lặp lại. Lời thơ ngọt ngào sâu lắng, chan chứa tình cảm: thiết tha mặn nồng, bâng khuâng, bồn chồn. Thể thơ lục bát êm dịu đầm đà tính dân tộc.
Với tình thơ tha thiết, giọng thơ êm ái, đoạn thơ trở thành khúc trữ tình đặc sắc thể hiện tình cảm của đồng bào Việt Bắc với các đồng chí cách mạng. Đồng thời cũng là tình cảm của các đồng chí cách mạng đối với những con người bình dị mà nặng tình nặng nghĩa “nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. đây cũng là đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.
Đoạn thơ “Mình về mình có nhớ ta” là tiếng lòng của người đi – kẻ ở tràn ngập một nỗi nhớ thương da diết về những kỷ niệm của một thời bom đạn khốc liệt, hào hùng. Giọng thơ ngọt ngào, âm điệu da diết cùng với thể thơ giàu tính dân tộc để diễn tả thành công trạng thái tình cảm nhớ thương, bịn rịn trong buổi chia tay.